Khi hệ thống xưởng phim Hollywood bắt đầu sụp đổ, những nhà dựng phim này trở thành các nhà làm phim trẻ thế hệ mới. Cuối những năm 1960, nước Mỹ bước vào giai đoạn chuyển đổi. Thế hệ trẻ ràng buộc bản thân với nghệ thuật, âm nhạc, và phim. Các nhà làm phim trẻ này không giống như bất kỳ đạo diễn nào trước đó. Họ đã lớn lên với các bộ phim và đã nghiên cứu chúng một cách tỉ mỉ. Đến năm 1970, các đạo diễn trẻ đã phá vỡ kỷ lục phòng vé. Những cái tên như Scorsese, Spielberg và Lucas đã trở thành huyền thoại sau giai đoạn này. Đằng sau những đạo diễn là một số nhà dựng phim cũng đã phá vỡ khuôn mẫu truyền thống. Theo bước chân của những phụ nữ tiên phong trong việc biên tập phim, những phụ nữ này sẽ cắt chỉnh thành công những tác phẩm đáng ca ngợi nhất của điện ảnh Mỹ. Họ là những nhà dựng phim của Hollywood Mới. Anne V.Coates Anne Voase Coates đã mơ ước được làm việc trong lĩnh vực phim ảnh. Người chú của cô, Arthur J. Rank, là một thành viên sáng lập Pinewood Film Studios. Công ty của ông, Rank Organization, cũng kiểm soát Denham Film Studios và chuỗi Odeon Cinemas. Rank là một người theo Hội Giám lý rất mộ đạo, người đã sản xuất ra nhiều bộ phim tôn giáo. Anne bày tỏ mong muốn của mình được làm việc trong một bộ phim, nhưng chú của cô lại ngăn cấm. Ông đã cố gắng làm cho của cô nhụt chí bằng cách yêu cầu cô cắt nhiều bộ phim tôn giáo mà ông đã sản xuất. Ông hy vọng rằng cô sẽ mất hứng thú trong ngành công nghiệp này và quay về công việc y tá của cô. Tuy nhiên, Anne lại tìm thấy động lực làm việc. Cô chỉnh sửa các ảnh phim từ bản âm thành các phim tôn giáo ngắn và gửi chúng đến nhiều nhà thờ Anh quốc khác nhau. “Có một số phụ nữ tuyệt vời đã giúp truyền cảm hứng cho tôi để làm công việc dựng phim tại Anh. Trên một phương diện nào đó, tôi đã không tự xem mình như một nữ doanh nhân. Tôi chỉ tự xem mình như một người dựng phim. Ý tôi là, tôi chắc chắn đã rất buồn vì tôi là một người phụ nữ, nhưng một thời gian sau tôi lại quen với điều này vì người ta cần một nhà dựng phim nữ.” – Film Sound Niềm đam mê đã chắp cánh cho công việc khi cô trở thành một trợ lý dựng phim phim tại Pinewood Studios. Bộ phim đầu tiên cô làm việc là The Red Shoes cho đạo diễn Michael Powell vào năm 1948. Cô làm việc dưới quyền biên tập viên Reggie Mills, người mặc dù không nói nhiều, nhưng đã chỉ dạy Anne khá nhiều luật lệ khi tiến hành chỉnh sửa phim. Mills tiếp tục giành giải Oscar cho Dựng Phim hay nhất với phim The Red Shoes. Đến năm 1952, Coates nhận được danh hiệu đầu tiên của mình với cương vị một nhà dựng phim cho The Pickwick Papers. Năm 1962, Anne V. Coates làm việc với đạo diễn David Lean để dựng hoàn chỉnh bộ phim sử thi Lawrence of Arabia. Bộ phim là một thành công trọn vẹn, và các kỹ thuật dựng phim của Coates vẫn còn được nghiên cứu và sử dụng cho đến ngày nay. “Tôi cho rằng bộ phim khó khăn nhất tôi hiệu chỉnh đó là Lawrenc bởi vì chúng tôi đã có một số lượng phim khổng lồ - Tôi tin rằng nó dài 31 dặm! – Nó đem lại một sự lựa chọn phong phú.” - Turner Classic Movies Việc chỉnh sửa nổi tiếng nhất trong phim là cảnh cắt tương đồng (match cut). Cảnh cắt được lấy từ hình ảnh ánh nắng mặt trời trên sa mạc Ả Rập. Đoạn phim tài liệu này mang đến một cái nhìn về việc thực hiện bộ phim, Anne V. Coates đã thảo luận dựng Lawrence of Arabia. Cô giải thích sự khó khăn của việc dựng phim ở London, trong khi các đoàn phụ trách âm thanh lại làm việc tại Shepperton Studios. Coates làm việc liên tục cả tuần trong vòng bốn tháng liền để hoàn thành Lawrence of Arabia kịp thời điểm. Và công sức của cô đã được đền đáp, Anne đã giành giải Oscar cho Dựng Phim hay nhất. Lawrence of Arabia đã được đề cử mười giải Oscar và giành được bảy giải. Hai năm sau, Anne đã được đề cử cho giải Oscar Dựng phim thứ hai của mình trong phim Becket. “Có những thứ nhỏ phi tuyến tính trong việc dựng phim của tôi mà đôi khi bạn có thể thậm chí không nhận thấy. Tôi bắt đầu cắt chỉnh nhảy cóc từ cảnh này sang cảnh khác rất nhiều lần. Khi tôi dựng phim Becket, nhà sản xuất, Hal Wallis, nói: "Cô không thể làm điều đó được. Không thể cắt một cảnh quay rồi ghép vào một cảnh khác cách đó những 50 dặm mà không có cảnh mờ để chuyển”. Tôi nói, "Hãy chờ xem, tôi làm được và nó sẽ rất hay.” Và cuối cùng, cảnh đó vẫn được trong phim.” - Editors Guild Cô đã nhận được đề cử Oscar thứ ba cho bộ phim năm 1981 The Elephant Man. Bộ phim là một thách thức, bởi vì nhà sản xuất Mel Brooks không muốn khán giả nhìn thấy khuôn mặt Elephant Man cho đến đoạn cuối phim. Đến những năm 1990, những thay đổi trong ngành công nghiệp phim khiến Anne phải nghiên cứu một quá trình dựng phim hoàn toàn mới. “Khi Frank Marshall và Kathleen Kennedy mời tôi đi Congo, họ nói, "Vâng, bạn phải làm điều đó bằng kỹ thuật số bởi vì các hệ thống hiệu ứng đặc biệt không theo cách cũ nữa." Vì vậy, họ đã cử tôi đi học Lightworks… Thực sự thì nó chỉ là một công cụ. Một khi tôi đã nhận ra nó trong đầu, tôi đẩy mọi thứ đi nhanh hơn. Và sau đó, khi tôi thực hiện Out of Sight, Steven Soderbergh người phụ trách âm thanh bảo tôi sử dụng phần mềm Avid [Avid Media Composer] để kết hơp với phần mềm làm âm thanh (pro tool). Sau đó, tôi chuyển từ Lightworks sang Avid, và tôi đã dùng Avid từ đó.” - Editors Guild Anne V. Coates vẫn còn làm việc trong ngành điện ảnh, gần đây đã vượt qua chiều dài của sự nghiệp của Margaret Booth. Cô vừa hoàn thành bộ phim bom tấn năm 2015 50 Shades of Grey. Cho đến nay cô đã được đề cử cho năm giải Oscar, và giành được một giải. Cô cũng là một thành viên của Sĩ quan Hoàng gia Anh (Order of the British Empire). Thelma Schoonmaker Khi theo học tại Đại học Columbia, Thelma Schoonmaker đã trả lời một quảng cáo của tờ New York Times với cương vị một trợ lý dựng phim. Cô đã cắt chỉnh rất thành công các bộ phim châu Âu để phù hợp với tiêu chuẩn phát sóng của Mỹ tại thời điểm đó. Với công việc này, cô đã học được nghệ thuật cắt bản âm. Sau đó, Schoonmaker đăng ký một khóa học làm phim sáu tuần tại Đại học New York (NYU). Ở đó cô đã gặp một thanh niên tên Martin Scorsese. Scorsese đang cố xoay sở để hoàn thành bộ phim ngắn của ông, “Một cô gái khả ái như em đang làm gì ở đây?” Một giáo sư hỏi Schoonmaker để yêu cầu cô giúp Scorsese hoàn thành bộ phim, và bộ đôi huyền thoại Hollywood đã gặp nhau. Cô dựng phim truyện đầu tiên của Scorsese, I Call First năm 1967 - đổi tên thành Who’s That Knocking at My Door. Năm 1970, Thelma Schoonmaker dựng phim Woodstock, một bộ phim tài liệu về các lễ hội âm nhạc nổi tiếng của Mỹ. Bộ phim giới thiệu các diễn viên thông qua một loạt các khung hình chồng lấn và hạn định. Bộ phim giúp Schoonmaker giành được đề cử Oscar đầu tiên dành cho Dựng phim hay nhất, một đề cử hiếm khi được trao cho một bộ phim tài liệu. (Năm 1996, Woodstock đã được chọn để lưu giữ tại Thư viện phim quốc gia của Quốc hội Hoa Kỳ.) Mặc dù Schoonmaker được một đề cử giải Oscar cho việc dựng phim, cô vẫn không thể tham gia Motion Picture Editors Guild. Để trở thành thành viên công đoàn, Schoonmaker phải bắt đầu làm việc như một người học việc và một trợ lý. Cô từ chối điều này, và do đó đã bị buộc phải làm việc trên một loạt các bộ phim nhỏ và phim tài liệu trong thập kỷ tiếp theo. Năm 1980, Scorsese mời Schoonmaker dựng bộ phim Raging Bull. Ban đầu cô đã phải từ chối, vì cô không phải là một thành viên của Editors Guild. Rõ ràng là công việc và tình bạn bấy lâu đã ủng hộ cô, bởi vì nó đã gây ảnh hưởng khiến liên đoàn phải kết nạp cô làm thành viên của mình. Schoonmaker cuối cùng đã gia nhập vào Motion Picture Editors Guild và đến làm việc cho Raging Bull. Trong bài thuyết trình tại EditFest NY 2010, Schoonmaker đã nói về trải nghiệm dựng cho buổi ngẫu hứng giữa Joe Pesci và Robert De Niro. 10 năm sau khi được đề cử giải Oscar, Schoonmaker lại một lần nữa được đề cử cho giải Dựng Phim hay nhất, và lần này cô đã mang về giải Oscar cho Raging Bull. Và kể từ đó, Schoonmaker đã tiến hành dựng cho mọi bộ phim của Scorsese. Scorsese không chỉ giúp đỡ Schoonmaker đạt được thành công như là một nhà dựng phim, ông còn giới thiệu Schoonmaker với chồng cô, đạo diễn Michael Powell. Powell là giám đốc của bộ phim được đề cập trước đó, The Red Shoes. Powell cũng là một người gây ảnh hưởng lớn lên Scorsese, người đã nghiên cứu các bộ phim của Powell. Sau cái chết của Michael Powell năm 1990, Scorsese và Schoonmaker vẫn tiếp tục tưởng nhớ bằng cách khôi phục lại bộ phim của ông. Trong video tuyệt vời này, ta có thể thấy cả ba người khi đang thực hiện việc dựng phim. Năm 1991, Thelma Schoonmaker nhận được đề cử Oscar thứ ba của mình với Goodfellas của Scorsese. Dưới đây là đoạn ghi lại khi Scorsese và Schoonmaker cùng xử lý việc pha trộn âm thanh. Mặc dù Goodfellas được đề cử cho sáu giải Oscar, chỉ có Joe Pesci giành được giải thưởng. Năm 1995, Schoonmaker giám sát phim tài liệu của Scorsese Chuyến du hành cá nhân với Martin Scorsese qua phim ảnh Mỹ, đó cũng là một phần của lễ kỷ niệm 100 năm làm phim của Viện Phim ảnh nước Anh. Schoonmaker giành được đề cử Oscar thứ tư của cô cho Gangs of New York. Hai năm sau, cô đã đoạt giải Oscar cho Dựng Phim hay nhất của The Aviator, và hai năm sau đó cô đã giành giải Oscar cho Dựng Phim hay nhất khác trong phim The Departed. Đề cử Oscar gần đây nhất của cô là trong bộ phim Hugo. Bảy đề cử giải Oscar của Thelma Schoonmaker cho dựng phim hay nhất là đề cử thứ hai trong lịch sử Oscar. Cô kém Michael Kahn một đề cử. Schoonmaker hiện được xem như một nhà dựng phim huyền thoại Barbara McLean. Dede Allen Dorothea Carothers "Dede" Allen bắt đầu sự nghiệp của mình tại Columbia Pictures vào năm 1940. Khi mới bắt đầu sự nghiệp, cô làm một người chạy việc trong bộ phận sản xuất, sau đó là bộ phận âm thanh và trợ ký cho bộ phận hiệu ứng đặc biệt. Một trong những dự án đầu tiên mà cô làm việc với cương vị một dựng phim là bộ phim Odds Against Tomorrow năm 1959, được đạo diễn bởi Robert Wise. Wise từng là cố vấn của Allen, thường khuyến khích cô thử nghiệm phương pháp chỉnh sửa mới. Wise cũng là một nhà dựng phim sau đó chuyển sang làm đạo diễn; ông đã dựng nên kiệt tác huyền thoại Citizen Kane. Năm 1961, Dede Allen dựng bộ phim bom tấn The Hustler diễn bởi Paul Newman. (Phần tiếp theo của bộ phim, The Color of Money, được đạo diễn bởi Martin Scorsese và bdựng phim bởi Thelma Schoonmaker). Dede Allen sau đó cộng tác với Paul Newman trong phim Rachel, Rachel, Slap Shot và Harry & Son. Khi hệ thống xưởng phim Hollywood sụp đổ, các nhà dựng phim phim mang một vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Thường thì các dựng phim là nhân viên phòng thu mà công việc của họ cho bất kỳ một bộ phim cụ thể nào cũng không cần được ghi nhận. Tất cả điều này đã thay đổi vào năm 1967, khi Dede Allen trở thành nhà dựng phim đầu tiên từng nhận được một danh hiệu riêng cho phần mở màn của một bộ phim. Bộ phim chỉ có mình cô nổi tiếng và được ca ngợi nhiều nhất - Bonnie và Clyde. Thành quả của Dede Allen đã phá vỡ các kỹ thuật dựng phim tiêu chuẩn Hollywood. Cô thực hiện các ứng dụng của phương pháp cắt nhảy, hoặc mở ra một cảnh với cách quay cận cảnh. Ứng dụng nổi tiếng nhất của cô khi dựng theo nhịp độ nhanh là cảnh chốt phim Bonnie và Clyde. Trong vòng chưa đầy một phút, Allen cắt hơn 50 lần cảnh quay phục kích. Trong những năm 1970, Allen sẽ thường xuyên cộng tác với đạo diễn Sidney Lumet, dựng phim của ông Serpico, Dog Day Afternoon, và The Wiz. Dede Allen giành được một đề cử cho giải thưởng Oscar cho Dựng Phim hay nhất với Dog Day Afternoon. Warren Beatty, người đã trò chuyện với Dede Allen về nhà báo John Reed trong khâu sản xuất Bonnie and Clyde, cũng mang lại cho Allen công việc dựng bộ phim Reds năm 1981. Phải mất hai năm rưỡi để hoàn thành bộ phim, lâu hơn bất kỳ bộ phim nào khác mà cô đã từng làm việc. Các câu chuyện của John Reed giành được 12 đề cử giải Oscar, trong đó có một đề cử Oscar cho dựng phim xuất sắc nhất, lần thứ hai dành cho Allen. Năm 1985, Allen đã biên tập tác phẩm cổ điển của John Hughes, The Breakfast Club. Cô cũng dựng phim The Addams Family vào năm 1991. Năm 1992, Dede Allen đảm nhận vai trò của người đứng đầu trong khâu hậu kỳ sản xuất ở Warner Bros. Cô quay lại việc dựng phim vào năm 2000 trong bộ phim Wonder Boys, và thu hút được đề cử Oscar thứ ba và cuối cùng của mình. Dede Allen qua đời năm 2010 ở tuổi 86. Để có một cái nhìn sâu sắc về sự nghiệp của bà, hãy xem một trong những cuộc phỏng vấn cuối cùng của bà trước khi chết. Verna Field – “Bậc thầy cắt xén” Verna Fields bắt đầu sự nghiệp điện ảnh của mình như là một nhà dựng âm thanh vào cuối năm 1950 - đầu năm 1960, với vài bộ phim như El Cid. Vào giữa những năm 1960, cô giảng dạy dựng phim tại Đại học Nam California (USC). Cô cũng thường xuyên tham gia dựng trong các dự án, như trong The Legend of the Boy và Eagle and Targets. Trong năm 1968, tác phẩm đầu tay xuất hiện trước công chúng lần đầu của cô là phim tài liệu Hành trình đến Thái Bình Dương. Verna Fields thuê hai biên tập viên, George Lucas và Marcia Griffin, để giúp đỡ cô ấy làm việc với các tài liệu. George và Marcia kết hôn vào năm 1969. Bị ấn tượng với các thành phẩm dựng âm thanh của cô trong phim Targets, đạo diễn Peter Bogdanovich đã mời Fields dựng bộ phim của ông What’s Up, Doc? và Paper Moon. Đồng thời, George Lucas cũng mời Verna Fields và Marcia Lucas dựng phim của ông American Graffiti. Cả Paper Moons và American Graffiti đều nhận được đề cử cho giải Oscar 1974. Riêng Paper Moons nhận được bốn đề cử. American Graffiti đã giành được năm đề cử, bao gồm Dựng Phim hay nhất cho Verna Fields và Marcia Lucas. Cùng năm đó, Fields bắt đầu dựng phim The Sugarland Express, bộ phim truyện đầu tiên được ra mắt bởi đạo diễn Steven Spielberg. Với kỹ năng và sự chăm chút đến từng chi tiết, Fields đã được biết đến như là "bậc thầy cắt xén”. Mặc dù xung quanh có rất nhiều các tài năng mới nổi, Verna Fields vẫn dựng phim truyện mới nhất của cô trong năm 1975. Cô đã làm việc với bộ phim tiếp theo của Spielberg - Jaws. Verna Fields đã phát huy hết khả năng của mình, bởi vì Jaws mang một đẳng cấp chuyên nghiệp tuyệt đối trong dựng phim. Dưới đây là một sự phá hủy dữ dội của một trong những cảnh phim. Verna Fields đã giành giải Oscar cho Dựng Phim hay nhất với Jaws, đánh bại Dog Day Afternoon của Dede Allen. Sau thành công của Jaws, Verna Fields đã trở thành Phó Chủ tịch Sản xuất tại Universal Studios. Bà vẫn giữ vị trí đó cho đến khi bà qua đời vào năm 1982. Marcia Lucas Như đã đề cập ở trên, Marcia Griffin đã kết hôn với George Lucas vào năm 1969. Cô làm việc như một trợ lý biên tập cho THX 1138 và The Candidate. Marcia Lucas sau đó đã hợp tác với Verna Fields trong American Graffiti, và thu về đề cử Oscar đầu tiên cho cô. Trong khi Martin Scorsese đã không mời Thelma Schoonmaker vào những năm 1970, Marcia Lucas đã dựng phim Alice Doesn’t Live Here Anymore và thực hiện việc giám sát dựng phim cho Scorsese trong Taxi Driver và New York, New York. Năm 1977, thế giới đã được biết đến Star Wars. Được chỉ đạo bởi George Lucas, bộ phim này đã được dựng Marcia. Marcia không chỉ làm việc như một nhà dựng phim, cô còn giúp ghi lại các mẩu phim. Trong một cuộc phỏng vấn với Rolling Stone, George Lucas cho biết, Tôi đã ghi lại, tôi đã đấu tranh với vấn đề cốt truyện khi vợ tôi đề nghị tôi giết chết Ben, điều mà cô nghĩ là một ý tưởng khá kỳ quặc, và tôi nói, 'Vâng, đó là một ý tưởng thú vị, và tôi đã suy nghĩ về nó.’ Ý tưởng đầu tiên của cô là để Threepio bị bắn, và tôi nói điều đó là không thể bởi vì tôi muốn bắt đầu và kết thúc bộ phim với các robot, tôi muốn bộ phim phải thực sự về robot và có chủ đề giới hạn cho phần còn lại của bộ phim. Nhưng sau đó khi càng nghĩ đến việc Ben bị giết, tôi càng thấy thích ý tưởng đó. Marcia cũng rất quan trọng đối với đoạn kết bộ phim tuyệt đỉnh Death Star. Để tạo dựng sự căng thẳng mà chuỗi cảnh ban đầu còn thiếu, Marcia đã phải xếp lại từ đầu thứ tự các cảnh quay. Cô ấy nói với George: Nếu khán giả không phấn khích khi Han Solo đến trong những giây cuối cùng của Millennium Falcon để giúp Luke khi anh bị Darth Vader đuổi theo, bộ phim sẽ không còn giá trị nữa. Trực giác của cô đã đúng, bởi vì Star Wars không chỉ là một bộ phim bom tấn, mà còn là cú giáng với các nhà phê bình. Marcia Lucas đã giành giải Oscar cho Dựng Phim hay nhất nhờ vào những gì cô đã làm trong Star Wars. Marcia cũng đã tiếp tục dựng Star Wars: Episode V - The Empire Strikes Back và Star Wars: Episode VI - Return of the Jedi. Đó cũng là những phim cuối cùng cô tham gia làm việc. Sau khi ly dị George Lucas, Marcia đã tránh xa dư luận và im hơi lặng tiếng từ đó. 24hinh.vn dịch theo premiumbeat