Dựng phim là một phần quan trọng của quá trình làm bất kỳ một bộ phim hay video nào. Như đạo diễn Francis Ford Coppola nói “Điều cốt yếu của điện ảnh chính là dựng phim. Đó là sự kết hợp của những hình ảnh đặc biệt của con người trong những khoảnh khắc tình cảm hay những hình ảnh có ý nghĩa chung được kết hợp cùng nhau một cách kì diệu” Bạn sẽ thấy trong những bài viết tiếp theo, không thể tách riêng việc dựng phim ra khỏi công việc chỉ đạo phim. Trên thực tế, chỉ đạo và dựng 1 bộ phim hay video thường do 1 người đảm nhiệm. Như Anthony Woller viết trong “American CinemeEditor,” “Một nhà dựng phim không cần phải là 1 nhà biên kịch, nhưng người đó phải biết được cấu trúc của câu truyện; không cần phải là nhà quay phim nhưng phải biết sắp xếp các hình ảnh và khả năng kết hợp của các góc quay; không cần phải là 1 đạo diễn nhưng phải cảm nhận rõ ràng được diễn xuất của diễn viên và những nhịp điệu kịch hay hài kịc như 1 đạo diễn” Dù nghệ thuật dựng phim không được công chúng đánh giá đầy đủ, nhưng nó lại được công nhận trong ngành công nghiệp phim ảnh. Giải thưởng Academy Award (hay Oscar) cho dựng phim được trao giải hàng năm. Các đề cử cho giải thưởng này có mối tương quan chặt chẽ với Giải Oscar cho phim xuất sắc nhất. Trong vài thập kỷ qua, mỗi phim được chọn là Phim xuất sắc nhất đều được đề cử Giải thưởng dựng phim, và hầu hết những bộ phim chiến thắng giải phim xuất sắc nhất đều thắng giải thưởng dựng phim. Với sự phát triển của các hệ thống dựng phim kỹ thuật số phi tuyến tính, vào năm 1999 tên giải thưởng được đổi thành Giải Oscar dựng phim xuất sắc nhất (Academy Award For Best Editing) Nguồn gốc của các phong cách dựng phim Những bộ phim đầu tiên không được dựng. Chúng được quay liên tục từ 1 ví trí máy quay. Thực tế cho thấy những bộ phim này đã mang đến những chuyển động kỳ lạ trên màn ảnh nhỏ - những hình ảnh chuyển động! Cuối cùng các nhà làm phim đã nhận ra rằng dựng phim có thể mang đến những lợi ích rất lớn cho những bộ phim của họ - bỏ đi một vài cảnh, di chuyển các cảnh đi xung quanh, thay đổi độ dài và vị trí của các cảnh. Bằng cách bố trí lại và điều chỉnh lại các cảnh quay khác nhau, 1 nhà dựng phim có thể tạo ra 1chuỗi câu truyện. Điều này thay đổi ảnh hưởng của bộ phim. Dựng phim được gọi là “nghệ thuật vô hình” vì nếu được làm một cách khéo léo, khán giả sẽ không biết được công việc của nhà dựng phim. Câu truyện, hiệu ứng hình ảnh hay tâm trạng truyền qua khán giả và thậm chí khi được xem bởi nhà làm phim lành nghề, câu truyện và tâm trạng có thể lấn át khả năng của người xem nhìn thấy việc dựng hình. Edwin Stanton Porter (April 21, 1870 – April 30, 1941) Edwin S. Porter là nhà làm phim người Mỹ đầu tiên dựng phim cho chính phim của mình. “Life of an American Fireman” năm 1902 của Porter được coi là bộ phim được dựng đầu tiên. Những kỹ thuật sự dụng trong bộ phim này được áp dụng tốt hơn cho bộ phim tiếp theo của ông “The Great Train Robbery” (1903). Bộ phim này sử dụng nhiều kỹ thuật điện ảnh mới như Cross cutting, phơi sáng 2 lần (double exposure) và chuyển động máy quay. Cross cutting là 1 kỹ thuật dựng phim cho phép khán giả xem việc xảy ra trong nhiều địa điểm cùng 1 lúc. Kỹ thuật này trở thành chuẩn mực được dùng nhiều trong rất nhiều bộ phim hay ngày nay. David Llewelyn Wark "D. W." Griffith (January 22, 1875 – July 23, 1948) Dựng phim được phát triển nhiều hơn nhờ D.W. Griffith. Bộ phim năm 1915 của ông là “The Birth of a Nation” đã sử dụng kĩ thuật máy quay và kể chuyện đã trở thành những chuẩn mực cho những phim truyện. Bộ phim này rất phổ biến nhưng gây tranh cãi vì liên quan đến vấn đề phân biệt chủng tộc. Bộ phim tiếp theo của ông là “Intolerance”nói lên sự nguy hiểm của định kiến. Griffith bắt đầu chỉ đạo hàng trăm cảnh quay, hầu hết là những phim một cuốn khởi nguồn cho những gì mà ngày nay chúng ta biết là ngữ pháp và ngôn ngữ của phim. Ông làm việc với đạo diễn hình ảnh Billy Bitzer, người đã có công đóng góp cho rất nhiều sự đổi mới của Griffith. Griffith đã dựng những cảnh cận cảnh và trung cảnh theo cách định hình và nhấn mạnh cảm xúc của một cảnh phim. Sự sử dụng chính xác cận cảnh tạo nên cảm xúc thăng hoa trong nhiều cảnh. Phong cách dựng phim trong những phim rượt đuổi tạo ra sự phấn khích bằng cách chuyển giữa cảnh giữa người truy đổi và nạn nhân. Vì cảnh truy đuổi đẩy những cảnh chuyển càng trở nên ngắn hơn mang đến cảm giác hồi hộp. Xem ví dụ “The Lonely Villa” (1909). Xem cách mà cảm giác hồi hộp được tạo ra từ những cảnh chuyển của 3 nhóm nhân vật khác nhau. Griffith đã sử dụng thành công kỹ thuật chuyển cảnh trong nhiều phim. Tuy nhiên, sự đóng góp của ông cho nền làm phim không chỉ dừng ở kỹ thuật dựng phim. Ông gần như trở thành nhà kiến thiết nên nghệ thuật điện ảnh hiện đại. D.W. Griffith được gọi là “cha của các kỹ thuật phim”, “người đàn ông kiến tạo Hollywood” và “Shakespeare của nền điện ảnh” Trong tất cả các công việc, chỉ đạo và dựng phim có ảnh hưởng lớn nhất đến sản phẩm cuối cùng. Theo đó, kịch bản, đạo diễn hình ảnh có đóng góp quan trọng đến hiệu ứng cuối cùng của 1 bộ phim. Nhà dựng phim, đạo diễn hình ảnh và diễn viên đều làm việc cho đạo diễn. Griffith sử dụng những vị trí thật tôn lên bộ phim. Ông bắt đầu chuyển công ty của ông đến California mỗi mùa đông để họ có thể quay phim trong điều kiện giống như mùa hè và tránh mùa đông lạnh giá của New York. Trong 1 trong những chuyến đi trước đây của ông, ông đã khám phá ra 1 ngôi làng nhỏ được gọi là Hollywood. Đó là một địa điểm dễ chịu. Người dân làng rất thân thiên và thoải mái với 1 công ty sản xuất phim trong ngôi làng của họ. Và đây là khởi nguồn của kinh đô điện ảnh thế giới.