Dựng phim Nghệ thuật dựng phim và video – Phần 3

Thảo luận trong 'Nghệ thuật dựng phim' bắt đầu bởi Son Kevin, 29/6/15.

Lượt xem: 3,431

  1. Son Kevin

    Son Kevin 23,97 hình/s


    [​IMG]

    Làm phim lan rộng khắp thế giới với các kỹ thuật của D.W. Griffith cũng được nghiên cứu rộng rãi. Vào những năm 1920, những nhà làm phim Liên Xô bị thu hút bởi công nghệ dựng phim và lý thuyết phim như là 1 phương thức truyền đạt thông tin và công cụ tuyên truyền. Sau cuộc cách mạng Nga năm 1917, Liên Xô cố gắng phát triển nền công nghiệp phim mới. Những nhà làm phim mới không có đủ máy quay hay stock, vì vậy thay vì tự quay footage, họ đã thử nghiệm dựng phim trên footage có sẵn từ các phim tình cảm buồn của Nga và những bộ phim của Mỹ. Lev Kuleshov, là 1 giáo viên dạy làm phim, đã lén nhập lậu 1 bản sao của bộ phim Intolerance của Griffith để học sinh của ông có thể nghiên cứu nó 1 cách chi tiết. Họ dựng lại 1 phần phim và phát hiện ra họ có thể tạo nên sự khác biệt hoàn toàn chỉ bằng việc thay đổi 1 cảnh phim

    Điều này đã khiến Kuleshov tổ chức 1 hội thảo để thử nghiệm 1 cảnh phim trong 1 bộ phim Nga. Họ có cảnh phim (cạnh cận) về 1 người đàn ông nhìn về phía trước mà không có cảm xúc. Họ sử dụng cảnh đó ghép lần lượt với 3 cảnh khác nhau:

    [​IMG]

    1. Xen vào cảnh mặt người đàn ông với 1 bát súp

    2. Xen vào cảnh mặt người đàn ông với 1 bé gái đang chơi

    3. Xen vào cảnh mặt người đàn ông với 1 người phụ nữ chết
    Họ cho khán giả xem 3 sequence đó. Khán giả khen ngợi khả năng diễn xuất của diễn viên. Họ nói anh ta cảm thấy đói bụng khi nhìn thấy bát súp, thấy vui khi nhìn thấy bé gái đang chơi và cảm thấy buồn vì mẹ của anh ta, nhưng cảnh phim của diễn viên không hề thay đổi chỉ thay đổi cảnh xung quanh. Hiệu ứng ấn tượng của những cảnh quay ghép này được gọi là hiệu ứng Kuleshov. Điều này chứng minh rằng phản ứng của khán giả không chỉ được quyết định bởi 1 cảnh quay mà còn bởi hoàn cảnh và cảnh quay xung quanh nó.

    [​IMG]
    Pudovkin (1893-1953)

    1 trong những học sinh của Kuleshov là Vsevolod Pudovkin, ông đã viết về các kĩ thuật của hội thảo và sản xuất các bộ phim. Kiệt tác của ông là phim The Mother năm 1926. Đây là cây chuyện về cách mạng của 1 người mẹ chống lại Sa Hoàng. Bộ phim là một trong những bộ phim có 1 cái kết gây chấn động nhất trong lịch sử phim ảnh. Và dựng phim chính là yếu tố làm nên sức hấp dẫn của bộ phim. Nhiều người coi Pudovkin là 1 trong những người sáng lập nên nền điện ảnh Hollywood.

    Eisenstein

    [​IMG]
    Sergei Eisenstein (1898 - 1948)
    Một học sinh khác của Kuleshov là Sergei Eisenstein. Bộ phim “Battleship Potemkin” năm 1925 của ông chính là phiên bản bi kịch hóa về cuộc nổi loạn xảy ra vào năm 1905 khi các thành viên tàu chiến Nga Potemkin nổi dậy chống lại các sĩ quan của chế độ Sa Hoàng. Đây là bộ phim chính trị vì nó tán dương chiến công của tầng lớp lao động còn gọi là giai cấp vô sản chống lại Sa Hoàng Nga. Bộ phim được coi là một trong những phim tuyên truyền có ảnh hưởng nhất mọi thời đại.


    Cảnh phim được tán dương nhất trong phim chứng minh nghệ thuật dựng phim kiệt xuất. Đó chính là cảnh thảm sát thường dân trên bậc thang Odessa. Binh lính của Sa Hoàng hành quân xuống từng bậc thang dài như vô tận xả súng vào đám đông thường dân. Cuộc diễu hành được dựng thành từng nhịp điệu. Rất nhiều người vô tội bị giết. 1 người mẹ đang đẩy nôi em bé bị bắn. Chiếc nôi tiếp tục lăn xuống bậc thang giữa cuộc xả súng mang đến sự hồi hộp.

    Để ý đến sự dựng lên nhịp điệu và sử dựng cảnh quay cận cảnh mang đến hiệu ứng kịch tích. Đây là 1 trong những cảnh phim nổi tiếng trong nền công nghiệp làm phim. Nhiều bộ phim Hollywood hiện đại đã bắt chước cảnh phim này để tỏ lòng kính trọng hay làm lại theo 1 cách hài hước.

    Vụ thảm sát miêu tả trên những bậc thang Odessa thực sự chưa bao giờ xảy ra. Nó do Eisenstein tạo ra để làm hiệu ứng cho phim. Nhà phê bình phim Roger Ebert viết “Thực sự thì không có việc thảm sát trên bậc thang Odessa, và điều đó không làm giảm đi sức mạnh của cảnh phim. Thật mỉa mai khi nói rằng Eisenstein đã làm nó rất tốt đến nỗi mà đến ngày hôm nay cảnh đổ máu ở Odessa được nhắc đến như nó thực sự xảy ra”

    Có hơn 150 đoạn cắt trong cảnh phim dài 7 phút đó nhưng đó không phải là số lần dựng cảnh. Đó là hiệu ứng mà người xem nhìn thấy sau gần 100 năm sau. Họ gọi kĩ thuật dựng phim này là “montage” nhưng hãy cẩn thận vì từ này có nghĩa khác nhau với những người khác nhau. Từ này là từ Pháp và dịch ra có nghĩa là “sự lắp ráp”. Kĩ thuật này gồm nhiều cảnh quay ngắn được ghép lại thành 1 sequence để thúc đẩy câu chuyện hay tạo ra tâm trạng. Những cảnh quay không cần thiết phải liên quan với nhau. Bằng cách ghép những cảnh phim khác nhau và sử dụng nhịp nhanh hơn, nhà dựng phim có thể nên, ví dụ như sự hồi hộp. 2 cảnh được ghép với nhau khiến người xem có thể tự nghĩ ra 1 kết luận như là cảnh mặt diễn viên với bát súp chẳng hạn.
    Những nhà làm phim thời trước, đặc biệt là người Nga, sử dụng kỹ thuật montage để thỉnh thoáng khiến khán giả bối rối hơn. Với Eisenstein, montage là 1 cơ hội để tạo nên ý nghĩa biểu tượng bằng cách dựng các cảnh phim không liên tục. Những kĩ thuật của Eisenstein trái với đến hệ thống liền mạch cổ điển của Hollywood, phá vỡ rất nhiều quy tắc dựng phim liền mạch.

    Trong nền công nghiệp làm phim Mỹ, montage là 1 kỹ thuật dựng phim đặc biệt, trong đó 1 loạt các cảnh phim ngắn được dựng thành 1 sequence được dùng để làm ngưng đọng không gian, thời gian và thông tin. 1 montage phổ biến trong phim Mỹ chính là newspaper montage. Nó bao gồm nhiều cảnh các tờ báo được in ra, di chuyển nhanh chóng trên băng chuyền, qua băng cuốn và đi ra ngoài nơi nó được chọn và đọc bởi người in báo. Tiêu đề thu nhỏ để lấp đầy màn hình. Đây là 1 cách nhanh chóng để cho biết thời gian trôi qua và có 1 sự phát triển mới.

    Bạn có thể thấy 2 ví dụ trong phim “It Happened One Night” năm 1934. Bộ phim là 1 bộ phim hài lãng mạn của Frank Capra, 1 trong những đạo diễn Mỹ xuất sắc nhất. Đây là bộ phim đầu tiên dành chiến thắng trên cả 5 giải thưởng chính của Oscar: Phim hay nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất, Diễn viên nam nữ chính xuất sắc nhất và Kịch bản hay nhất.

    Trong thuyết montage của Sô Viết, montage có nghĩa là tạo ý nghĩa biểu tượng. Tuy nhiên, ý nghĩa của nó phức tạp hơn nhiểu. Ví dụ như thuyết montage của Eisenstein là 1 phong cách dựng phim của những cảnh không liên tục, trái với quy tắc 180 độ và các vi phạm khác so với hệ thống liền mạch cổ điển của Hollywood.

    Mời các bạn tiếp tục chờ đón phần 4 của series học về Nghệ thuật dựng phim và video của 24hinh.vn tổng hợp và biên soạn.


    Tài liệu tham khảo:

    · Sách Kỹ thuật dựng phim – Tác giả: Karel Reisz và Gavin Milar

    · Sách Những bài học về dàn dựng – Tác giả : Sergei Mikhailovich Eisentein

    · Ebook The Technique Of Film and Video Editing - History, Theory, and Practice – Tác giả : Ken Dancyger



     
    Chỉnh sửa cuối: 13/9/15