Tips Cách Stanley Kubrick làm chủ ánh sáng hiệu quả

Thảo luận trong 'Nghệ thuật chiếu sáng phim ảnh' bắt đầu bởi Son Kevin, 26/2/18.

Lượt xem: 2,914

  1. Son Kevin

    Son Kevin 23,97 hình/s

    [​IMG]
    Không có trải nghiệm phim nào độc đáo như xem một bộ phim của Stanley Kubrick. Ngay cả sau khi ông qua đời, ông vẫn được coi là một trong những người sáng tạo nhất, có tầm nhìn nhấ, và kỳ quái nhất thời đại. Ông đã cho chúng ta những bộ phim điển hình như 2001: A Space Odyssey, Full Metal Jacket, A Clockwork Orange, Spartacus, Paths of Glory, and of course The Shining và tất nhiên là The Shining.

    Là một đạo diễn, bộ thủ thuật của Kubrick có nhiều công cụ và kỹ thuật ông thường xuyên sử dụng cho các phim của ông. Một số kỹ thuật ông đã sử dụng qua nhiều năm bao gồm, khung hình đối xứng, cảnh quay theo nhân vật, zooms, và một hình ảnh tuần hoàn trong nhân vật được đặt ra một cách hợp lý "The Kubrick Stare".

    Trong bài này, chúng ta sẽ không nói về bất kỳ kỹ thuật nào, mà là một sự lựa chọn phong cách thường bị bỏ quên khi đề cập đến danh mục các phim của Kubrick và đó là ánh sáng hiệu qu (practical lighting hoặc tên khác là ánh sáng thực tế). Hãy xem video phân tích tuyệt vời này cách mà Kubrick sử dụng ánh sáng thực tế trong phim của mình.
    Ánh sáng hiệu quả (practical lighting )

    Ánh sáng hiệu quả là gì? Ánh sáng hiệu quả là nguồn ánh sáng thu được trong khung hình và cũng được coi là một nguồn ánh sáng trong cảnh. Nguồn ánh sáng hiệu quả có thể là từ đèn, nến, đèn dây, đèn pha của xe, và hầu hết các loại đèn chiếu sáng bạn có thể nghĩ đến. Rất nhiều lựa chọn.

    Sẽ là sai khi nghĩ Kubrick là đạo diễn đầu tiên sử dụng ánh sáng hiệu quả trong phim vì có những người đã dùng trước ông. Tuy nhiên, tính thẩm mỹ của ánh sáng hiệu quả có được sự nổi tiếng như vậy phần lớn nhờ vào các bộ phim của Stanley Kubrick. Trước đó, phương pháp chiêú sáng tiêu chuẩn được sử dụng trong thời hoàng kim của Hollywood là hệ thống chiếu sáng ba điểm.

    Trong hệ thống chiếu sáng ba điểm, đối tượng hoặc nhân vật được bao quanh bởi ba đèn ngoài camera. Ánh sáng đầu tiên là key light. Đó là ánh sáng chính, thường là ánh sáng sáng nhất chiếu trực tiếp vào đối tượng. Ánh sáng thứ hai là filler light. Ánh sáng này chiếu vào đối tượng từ những góc cụ thể để giảm bóng tối tạo ra bởi key light. Và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là backlight. Backlight chiếu sáng vào đối tượng để đối tượng được tách biệt ra khỏi hậu cảnh.
    Một trong những lý do tại sao đây là chuẩn mực của ngành công nghiệp có thể được đánh giá đầy đủ trong cảnh The Philadelphia Story với sự tham gia của Katherine Hepburn và Jimmy Stewart được chìm trong ánh sáng tuyệt trần làm nổi bật vẻ đẹp của họ cũng như làm cho môi trường xung quanh rõ nét hơn. Tuy nhiên, nếu bạn nhìn kỹ hơn, bạn có thể thấy được nhược điểm của hệ thống ba điểm.
    Bạn sẽ nhận thấy rằng không có ánh sáng nào trông tự nhiên cả. Thứ nhất, mặt các nhân vật không hề đổ bóng, rồi lại có thêm ánh sáng ở ngoài camera được sử dụng để làm cho mắt và tủ quần áo lấp lánh nhưng không có nguồn ánh sáng trong câu chuyện. Tất cả những điều này khiến cho hình ảnh trở nên giả tạo.

    Vào đầu những năm 1960, các bộ phim Hollywood bắt đầu có một bước ngoặt khác với các đạo diễn muốn theo đuổi chủ nghĩa hiện thực cho hình ảnh. Kubrick nổi tiếng vì sự siêng năng và đôi khi sự ám ảnh về chủ nghĩa hiện thực.
    Có nhiều lý do để sử dụng ánh sáng hiệu quả. Trong phim Barry Lyndon, chiếu sáng nội thất chỉ bằng nến không chỉ chính xác về mặt lịch sử mà còn giúp ngăn sự hoài nghi từ khán giả. Nếu ánh sáng là không đáng thực, nó sẽ khiến khán giả xao lãng và bị đẩy ra khỏi câu chuyện.

    Trong một trong những cảnh từ phim The Killing, ánh sáng rõ ràng rất khác biệt so với cảnh trong phim The Philadelphia Story. Dù ánh sáng của cả hai phim đều là ánh sáng trên không, hoặc ít nhất là câu chuyện Philadelphia cố gắng bắt chước ánh sáng trên không, cảnh trong The Killing không quyến rũ cũng không lãng mạn. Thay vào đó, nó lại hiện ra như điềm gở và gây ra nỗi sợ hãi, và có một cảm giác rằng một cái gì đó nguy hiểm có thể xảy ra. Khi bạn xem, bạn sẽ nhận thấy một số các diễn viên thậm chí biến mất vào phần hậu cảnh.
    Với phim Eyes Wide Shut, Kubrick đã sử dụng những ánh sáng thực tế rải rác để thiết lập vị trí, cũng như cho phép nhận diện không gian cho cảnh phim. Ông đã sử dụng ánh sáng để tạo chiều sâu, để tách biệt hành động tiền cảnh ra khỏi hành động hậu cảnh. Nó cũng giúp tạo sự rõ ràng cho cảnh phim, cho phép khán giả cảm nhận được nhiều thông tin ngay lập tức.
    Việc sử dụng ánh sáng thực tế hiện nay trở nên phổ biến đối với các nhà quay phim và đạo diễn tại Hollywood. Nhưng đó chủ yếu là do sự thành công của các đạo diễn như Stanley Kubrick, người nổi lên chống lại màu hồng lãng mạn của Hollywood cổ điển. Những bộ phim có xu hướng miêu tả cuộc sống như chúng ta mong ước nó như thế, chứ không phải như thực tế.

    Với các phim của Kubrick, khán giả được xem những thước phim thu lại cuộc sống thực được bao quanh bởi cả ánh sáng và bóng tối. Nếu không có những thành công đó, ai biết ngành công nghiệp điện ảnh sẽ đi về đâu? Có lẽ chúng ta sẽ bị mắc kẹt khi xem những bộ phim khiến mọi người có vẻ như họ được bao quanh một ánh sáng tuyệt trần, hoặc có lẽ mọi thứ cuối cùng đã tự nhiên tiến hoá
    Dù cho thế nào đi chăng nữa, chúng ta - những khán giả cũng bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đối với Kubrick không chỉ vì những tác phẩm của ông trong lĩnh vực điện ảnh mà còn cho những bộ phim mẫu mực (như The Shining, Orange Clockwork, Eyes Wide Shut..) mà ông ấy đã mang lại cho chúng ta.

    Nếu có một điều nói về Kubrick, thì đó sẽ là dám khác biệt. Kubrick đã quyết định thử một cái gì đó vẫn còn tương đối mới ở Hollywood thời đó và biến nó thành một thành công lớn. Vì vậy bất cứ điều gì bạn đang làm, cho dù đó là nhiếp ảnh, hoặc bạn đang cố gắng thử đạo diễn, đừng ngần ngại thử một cái gì đó mới.